Quy định về đặc xá và ân giảm án tử hình
QUY ĐỊNH VỀ ĐẶC XÁ VÀ ÂN GIẢM ÁN TỬ HÌNH
1. Quy định về đặc xá
1.1. Đặc xá là gì?
Theo Luật Đặc xá 2018, đặc xá là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt.
Từ khái niệm trên có thể thấy thẩm quyền đặc xá thuộc về Chủ tịch nước và áp dụng cho người bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân, không áp dụng cho người bị kết án tử hình, người đang bị tạm giam, tạm giữ hoặc đang bị truy tố.
1.2. Điều kiện được xét đặc xá
Điều 11 Luật Đặc xá 2018 quy định về điều kiện được đề nghị xét đặc xá đối với từng đối tượng như sau
* Đối với người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, người bị kết án phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn:
- Có nhiều tiến bộ, ý thức cải tạo tốt và được xếp loại chấp hành án phạt tù khá hoặc tốt theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự;
- Đã chấp hành án phạt tù được một thời gian nhưng ít nhất 1/3 thời gian đối với trường hợp bị phạt tù có thời hạn; đã chấp hành án phạt tù ít nhất là 14 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn;
Người bị kết án về tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội; tội phá hoại nhằm chống chính quyền nhân dân; tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân;
Người bị kết án từ 10 năm tù trở lên về một trong các tội quy định tại Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người do cố ý;
Người bị kết án từ 07 năm tù trở lên về tội cướp tài sản; tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; tội sản xuất trái phép chất ma túy; tội mua bán trái phép chất ma túy; tội chiếm đoạt chất ma túy của Bộ luật Hình sự đã chấp hành án phạt tù được một thời gian nhưng ít nhất là 1/2 thời gian đối với trường hợp bị kết án phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù;
Đã chấp hành án phạt tù ít nhất là 17 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn.
- Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, đã nộp án phí;
- Đã thi hành xong nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác đối với người bị kết án phạt tù về các tội phạm tham nhũng hoặc tội phạm khác do Chủ tịch nước quyết định trong mỗi lần đặc xá;
- Đã thi hành xong hoặc thi hành được một phần nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác nhưng do lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn thuộc trường hợp chưa có điều kiện thi hành tiếp phần còn lại theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự đối với người bị kết án phạt tù không thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản này.
Trường hợp phải thi hành nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác đối với tài sản không thuộc sở hữu của Nhà nước thì phải được người được thi hành án đồng ý hoãn thi hành án hoặc không yêu cầu thi hành án đối với tài sản này;
- Khi được đặc xá không làm ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự;
- Không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 12 của Luật này.
* Đối với người đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù được đề nghị đặc xá:
- Có nhiều tiến bộ, ý thức cải tạo tốt và được xếp loại chấp hành án phạt tù khá hoặc tốt trong thời gian chấp hành án phạt tù trước khi có quyết định tạm đình chỉ;
- Đã có thời gian chấp hành án phạt tù quy định tại điểm b khoản 1 Điều 11 Luật Đặc xá;
- Các điều kiện quy định tại các điểm c, d, đ, e và g khoản 1 Điều 11 Luật Đặc xá;
- Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật trong thời gian được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù.
* Các điều kiện chung khác:
- Đã lập công lớn trong thời gian chấp hành án phạt tù, có xác nhận của trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc cơ quan có thẩm quyền khác;
- Người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng; người được tặng thưởng danh hiệu Dũng sĩ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước; “Anh hùng Lao động”; một trong các loại Huân chương, Huy chương Kháng chiến; cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng liệt sĩ khi còn nhỏ; con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng; cha, mẹ, vợ, chồng, con của người có công giúp đỡ cách mạng được tặng Kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi công” hoặc Bằng “Có công với nước”;
- Người đang mắc bệnh hiểm nghèo, người đang ốm đau thường xuyên mà không tự phục vụ bản thân;
- Khi phạm tội là người dưới 18 tuổi;
- Người từ đủ 70 tuổi trở lên;
- Có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và bản thân là lao động duy nhất trong gia đình;
- Phụ nữ có thai hoặc có con dưới 36 tháng tuổi đang ở với mẹ trong trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ;
- Người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định của pháp luật về người khuyết tật; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định của pháp luật về dân sự;
- Trường hợp khác do Chủ tịch nước quyết định.
Người dưới 18 tuổi đang chấp hành án phạt tù có đủ điều kiện quy định tại điểm a và điểm g khoản 1 Điều 11 Luật Đặc xá hoặc người dưới 18 tuổi đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù có đủ điều kiện quy định tại điểm g khoản 1, điểm a và điểm d khoản 2 Điều 11 được Chủ tịch nước quyết định thời gian đã chấp hành án phạt tù ngắn hơn so với thời gian quy định tại điểm b khoản 1 Điều 11.
2. Ân giảm án tử hình
Từ các quy định của pháp luật, có thể hiểu ân giảm án tử hình là thẩm quyền của Chủ tịch nước giảm hình phạt tử hình theo bản án đã có hiệu lực pháp luật xuống tù chung thân theo quy định của pháp luật, thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với những người phạm đội đặc biệt nghiêm trọng, mở ra cho những người này khả năng ăn năn hối cải, cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội.
Khoản 7 Điều 367 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước."
Bên cạnh đó, đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc một trong các trường hợp dưới đây thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm:
- Người đủ 75 tuổi trở lên;
- Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.
Theo quy định trên, người bị kết án tử hình được ân giảm vẫn có thể tiếp tục được xét giảm án nhưng vẫn theo điều kiện khắt khe là thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm.
Như vậy, đối với ân giảm án tử hình pháp luật không quy định cụ thể những điều kiện để được xét ân giảm như đối với đặc xá. Tuy nhiên vì đây là vấn đề liên quan đến sinh mệnh của con người và tính nghiêm minh của pháp luật nên việc xét đơn xin ân giảm án tử hình được thực hiện hết sức thận trọng.
Có thể thấy, đặc xá và ân giảm án tử hình thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước ta đối với người phạm tội, nhằm động viên, khuyến khích người bị kết án phạt tù ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải tạo để nhanh chống được tái hòa nhập cộng đồng, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội, phòng ngừa tái phạm tội, vi phạm pháp luật.
Trên đây là một số thông tin QUY ĐỊNH VỀ ĐẶC XÁ VÀ ÂN GIẢM ÁN TỬ HÌNH
Bạn muốn tư vấn về vấn đề này, hãy liên hệ tới số HOTLINE: 0989185188
CÔNG TY LUẬT TNHH TRE VIỆT - TIN TRE VIỆT TRỌN GIÁ TRỊ
HOTLINE: 0989185188